TỔN THƯƠNG DÂY THẦN KINH - CƠ

Thứ 6 ngày 02 tháng 04 năm 2021Lượt xem: 8919

Bệnh nang rễ thần kinh (Bệnh nang Tarlov).

 

Bệnh nang rễ thần kinh hay còn gọi là bệnh nang Tarlov có thể gây nhiều triệu chứng khiến người bệnh mệt mỏi, khó chịu, giảm hiệu suất làm việc và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Điều trị nang Tarlov không kịp thời có thể gây một số biến chứng nguy hiểm cho người bệnh.

Nang rễ thần kinh chứa dịch não tủy, gặp hầu hết có ở xương cùng. Chúng xuất hiện dọc theo rễ sau dây thần kinh, có thể có valve hoặc không, có thể gặp một hoặc nhiều nang. Đặc điểm phân biệt với những loại tổn thương dạng nang khác ở cột sống là: có sợi xơ của rễ dây thần kinh tuỷ sống phía trong thành nang. Nang Tarlov được mô tả lần đầu tiên trong y văn vào năm 1938.

1. Dịch tễ học.

Nữ nhiều hơn nam, đa số ở 31 – 60 tuổi. Khoảng 33 % nang xuất hiện ở những chỗ khác của cơ thể, trong đó phổ biến nhất là ở bụng, bàn tay và cổ tay. Khoảng 3%  bệnh nhân không đau; 4,2 % đau rất nhẹ; 7,6% đau nhẹ; 31,5% đau vừa; 38,6% đau nhiều; 15,1% đau rất nhiều.

Đa số nang rễ thần kinh là những nang nhỏ, không triệu chứng chiếm khoảng 5 – 9 % dân số. Còn nang lớn gây triệu chứng rất hiếm gặp.

2. Nguyên nhân gây ra bệnh nang Tarlov.

Nguyên nhân gây ra nang Tarlov chưa được xác định. Một số giả thuyết tồn tại bao gồm các nang là kết quả từ quá trình viêm trong bao rễ thần kinh hoặc chấn thương bao rễ thần kinh và gây rò rỉ dịch não tủy vào khu vực mà nang hình thành. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có sự thông thương bất thường bẩm sinh giữa khoang dưới nhện, nơi chứa dịch não tủy và vùng xung quanh dây thần kinh bị ảnh hưởng. Sự thông thương có thể giữ nguyên hoặc đóng lại, sau khi để dịch não tủy rõ rỉ ra ngoài và tạo thành nang. Vì nang Tarlov chứa dịch não tủy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự dao động bình thường của áp suất dịch não tủy có thể dẫn đến gia tăng kích thước của nang và tăng khả năng phát triển các triệu chứng.

Trong nhiều trường hợp, những người có Tarlov không triệu chứng sẽ phát triển thành triệu chứng sau một chấn thương hoặc các hoạt động làm tăng áp suất dịch não tủy chẳng hạn khuân vác đồ nặng, lao động gắng sức.

Một số báo cáo gợi ý rằng một sống người với bất thường mô liên kết sẽ có nguy cơ hình thành nang Tarlov cao hơn dân số chung. Vì vậy, cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để hiểu rõ được cơ chế dẫn đến sự phát triển nang Tarlov và sự khởi phát các triệu chứng.

3. Yếu tố nguy cơ mắc bệnh nang Tarlov.

Phụ nữ có nguy cơ hình thành nang Tarlov cao hơn đàn ông. Tỉ lệ hiện mắc và mới mắc của nang Tarlov có triệu chứng trong dân số chung vẫn chưa được làm rõ. Vì những nang này thường không được nhận biết hoặc bị chẩn đoán sai, việc xác định tần suất gặp trong dân số gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, tổng số bệnh nhân bị nang Tarlov (có triệu chứng và không triệu chứng) ước lượng khoảng 4,6 – 9% dân số trưởng thành.

4. Các biểu hiện gợi ý có bệnh lý nang rễ thần kinh.

Nhiều trường hợp nang Tarlov không có triệu chứng (bệnh không triệu chứng). Tuy nhiên, nang Tarlov có thể phát triển kích thước. Biểu hiện bệnh tùy thuộc vào kích thước và vị trí của nang, nang càng lớn thì càng có khả năng cao gây ra các triệu chứng. Triệu chứng cụ thể và mức độ của chúng thay đổi theo từng cá nhân và theo vị trí dọc theo cột sống.

Đau mạn tính là triệu chứng thường gặp của bệnh nang Tarlov có triệu chứng.

Nang vùng thắt lưng – xương cùng có thể gây đau vùng thắt lưng, nhất là vùng dưới eo, lan đến mông và cẳng chân. Cơn đau có thể nặng hơn khi đi bộ (đau cách hồi do thần kinh). Triệu chứng có thể tiến triển ngày càng tệ hơn. Ở một vài người bệnh, ngồi hoặc đứng lâu có thể làm cơn đau nặng lên, tư thế nằm có thể giúp giảm đau. Một vài trường hợp, đau có thể ảnh hưởng đến cả vùng lưng trên, nách, cánh tay và bàn tay nếu nang tồn tại ở vị trí tủy sống cao. Đau có thể tồi tệ hơn khi ho hoặc hắt hơi. Một số người bệnh còn bị đau ở âm hộ, tinh hoàn, ống hậu môn, vùng chậu và bụng mất kiểm soát bàng quang và nhu động ruột (tiểu tiện không tự chủ hoặc tiểu khó), bất lực, và hiếm gặp hơn là tình trạng yếu cẳng chân.

Vì vùng tổn thương gần với khung chậu dưới, bệnh nhân có thể bị chẩn đoán nhầm với thoát vị đĩa đệm, viêm màng nhện và bệnh phụ khoa. Chẩn đoán sẽ rất khó nếu bệnh nhân có mắc bệnh nào khác ở vùng này.

Những triệu chứng khác đã từng được báo cáo trong y văn bao gồm đau đầu mạn tính, giảm thị giác, tăng áp lực sau mắt, hoa mắt, chóng mặt, liệt cơ bắp ở gót và bàn chân (bàn chân rơi),... Một số người còn biểu hiện sự thoái hóa mỏng dần (xói mòn) xương cột sống nằm dưới nang.

5. Chẩn đoán.

Bệnh nang Tarlov thường nhầm lẫn với nhiều bệnh lý khác nhau: túi thừa màng não tủy, thoát vị màng não tủy, u sợi thần kinh, u tế bào schwann và nang màng nhện. Những loại nang và u này gây chèn ép tủy sống và rễ thần kinh.

Nếu không được chữa trị kịp thời, bệnh nang Tarlov có thể gây ra một số biến chứng nguy hiểm cho người bệnh.

Vì vậy, cần được thăm khám bởi Bác sĩ chuyên khoa Thần kinh.

Có thể làm một số xét nghiệm để chẩn đoán xác định:

   + Chụp cộng hưởng từ: tìm hình ảnh tổn thương dạng nang Tarlov.

   + Ghi điện cơ: để đánh giá chức năng thần kinh bị tổn thương do nang Tarlov gây nên.

 

(Hình ảnh Nang Tarlov của bệnh nhân nam 39 tuổi)

ktk@vn  tham khảo


Tài liệu tham khảo     >>> Mời xem

1. Diagnosis and Management of sacral Tarlov cysts.

2. Vai trò xét nghiệm Điện cơ trong thực hành lâm sàng Thần kinh.

3. Vai trò xét nghiệm Điện cơ trong chẩn đoán bệnh nhân bị Tê tay.

4. Khi nào bạn cần đến sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa Thần kinh.

5. Bệnh nhân Liệt tứ chi nhờ có xét nghiệm Điện cơ đã chẩn đoán bệnh kịp thời.